E7. 8 – Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Thời Tân Ước
Cây Gậy Của Người Chăn Bầy
Bài của Leo Harris
Mục Lục
E7. 1 – Quyền Năng Của Sự Khao Khát Sâu Xa
E7. 2 – Quyền Năng Vô Hạn Của Sự Hiệp Nhất Tận Hiến
E7. 3 – Rao Giảng Đầy Đủ Về Tin Lành Của Đấng Christ
E7. 4 – Người Rao Giảng Và Dân Chúng Trong Sự Phục Hưng Tân Ước
E7. 5 – Hội Thánh Chung Và Các Hội Thánh Tư Gia Trong Tân Ước
E7. 6 – Hình Ảnh Hội Thánh Cơ Đốc Thời Tân Ước
E7. 7 – Chức Thầy Tế Lễ Của Hội Thánh Thời Tân Ước
E7. 8 – Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Thời Tân Ước
E7. 9 – Các Chức Vụ Trong Hội Thánh Tại Thành Phố Và Tư Gia
E7.10 – Sự Trang Bị Siêu Nhiên Cho Hội Thánh tư Gia
E7.11 – Mỗi Hội Thánh Tư Gia Là Một Căn Cứ Truyền Giáo
E7.12 – Sự Kêu Gọi Của Mùa Gặt
Chương 8:
NHỮNG CHỨC VỤ TRONG HỘI THÁNH TÂN ƯỚC
Phần Dẫn Nhập
Hội Thánh Cơ đốc, là tổ chức được biệt riêng ra thánh hơn là một tổ chức do con người thiết lập nên, phải có sự lãnh đạo và các ân tứ do Đức Chúa Trời ban cho. Nhưng rủi thay, ngày nay hầu hết các chức vụ lãnh đạo Cơ đốc lại căn cứ vào học vị, sự kêu gọi và chỉ định của con người.
Tuy nhiên khuôn mẫu trong Tân Ước nói đến một chức vụ được lựa chọn cách siêu nhiên và được trang bị thánh cho Hội Thánh.
Có một số chức vụ nào đó trong mỗi Hội Thánh tư gia. Các trưởng lão và các chấp sự phụng sự trong Hội Thánh tư gia và phải có một số phẩm chất cá nhân nào đó theo Kinh Thánh đã nói. Chúng ta sẽ xem xét đến những phẩm chất này trong bài nghiên cứu sau. Nhưng ân tứ lãnh đạo mà Đấng Christ đã ban cho Hội Thánh của Ngài dựa trên năm chức vụ ân tứ.
Những chức vụ ân tứ này được chính Đấng Christ ban cho một số người nào đó cách siêu nhiên. Những người lãnh đạo này sẽ tiếp tục thực hiện chức vụ của Chúa Jesus trong Hội Thánh của Ngài trên đất này. Họ đang làm những gì Ngài đã làm.
A. NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ ĐƯỢC BAN CHO HỘI THÁNH
“Nhưng đã ban ân điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ. Vậy nên có chép rằng: Ngài đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ân tứ cho loài người và những chữ “Ngài đã lên ” có ý nghĩa gì?
Há chẳng phải là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất sao? Đấng đã xuống, tức là Đấng đã lên trên hết các từng trời, để làm cho đầy dẫy mọi sự ” (Eph 4:7-10).
“Ấy chính Ngài đã làm cho người này làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư ” (4:11).
Những câu Kinh Thánh này nói rõ rằng sau khi Ngài về trời ngồi bên hữu Đức Chúa Cha, Ngài đã ban năm chức vụ ân tứ này cho những người trong Hội Thánh của Ngài.
Những chức vụ ân tứ này là sự bày tỏ một phần chức vụ trọn vẹn của Đấng Christ. Không một người lãnh đạo Hội Thánh nào lại có thể bao hàm hết toàn thể chức vụ của Chúa Jesus. Cần phải có nhiều “tôi tớ lãnh đạo” được ban cho những ân tứ này. Chức vụ trọn vẹn của Đấng Christ cần phải tái hiện giữa vòng dân sự của Ngài.
1. Duy Đấng Christ Là Đấng Ban Cho
Năm chức vụ này là những ân tứ của Đấng Christ và chỉ có Ngài mới ban cho. Những ân tứ này không phụ thuộc vào sự chỉ định của con người. Đấng Christ dấy lên và trang bị cho những người nam (người nữ ) những ân tứ cụ thể trong Hội Thánh.
2. Thực Hiện Dưới Sự Hướng Dẫn Và Quyền Năng Của Thánh Linh
Khi những chức vụ này xuất hiện giữa vòng chúng ta và chúng ta nhận diện được thì đó là điều rất tốt. Nhưng dù chúng ta có nhận ra được hay không, thì những chức vụ này phải thực hiện dưới sự hướng dẫn và quyền năng của Đấng Christ hằng sống.
3. Có Liên Hệ Đến Người Nhận Được Chức Vụ
Có điều thú vị đáng chú ý là những chức vụ ân tứ của Đấng Christ luôn gắn liền với người nhận được chức vụ đó.
Ngược lại, các ân tứ của Thánh Linh (ICo 12:1-31) gắn liền với Đấng ban cho hơn là với người nhận lãnh. Chúng ta gọi đó là những ân tứ CỦA THÁNH LINH (Đấng ban cho). Nhưng chúng ta không thể tách rời năm chức vụ ân tứ này khỏi người đã nhận và thi hành ân tứ đó.
Chúng ta không thấy Kinh Thánh chép là con người nhận được “một ân tứ sứ đồ” hoặc “ân tứ mục sư”, nhưng chúng ta thấy Kinh Thánh chép rằng “Ngài đã ban cho một số người làm sứ đồ, một số người làm tiên tri ” v.v… Ân tứ (hoặc khả năng) đã đồng hóa với chính người đó cho biết họ là ai và họ là gì trong Hội Thánh.
Chính những con người đó là ân tứ của Đấng Christ ban cho Hội Thánh Ngài. Họ được đầy dẫy Thánh Linh, được trang bị cách siêu nhiên, hết thảy họ đều mang một phần chức vụ vinh hiển, trọn vẹn của Đấng làm Đầu Hội Thánh là Đấng Christ.
B. MÔ TẢ NĂM CHỨC VỤ ÂN TỨ
Bây giờ chúng ta hãy xem xét mỗi ân tứ trong năm chức vụ ân tứ này.
1. Sứ Đồ
Từ “sứ đồ” (apostle), theo tiếng HyLạp là “apostolos” nghĩa là “một người được sai đi ” hoặc là “sứ giả ”. Đức Chúa Jesus Christ là một sứ đồ (He 3:1) – Đấng “được Đức Chúa Trời sai đến ”. Ngài đã đặt nền cho Hội Thánh. Bây giờ Ngài đang xây dựng Hội Thánh.
a. Mười Hai Sứ Đồ.
Trong suốt chức vụ trên đất của Đấng Christ, Ngài đã chỉ định mười hai sứ đồ là những người được Ngài trang bị đầy đủ cho chức vụ và “sai họ đi ” (Mat 10:16).
Những vị sứ đồ này không phải được con người chỉ định nhưng họ đã hoàn toàn vâng theo mạng lệnh và năng lực (quyền năng và quyền bính) của Đấng Christ.
Họ được xem là “những sứ đồ của Chiên Con”. “Còn tường thành có mười hai cái nền, tại trên có để mười hai danh, là danh mười hai sứ đồ của Chiên Con ” (Kh 21:14).
Họ có một chức vụ và mối quan hệ mật thiết với nước Ysơraên và dân tộc Do Thái “Ấy đó là mười hai sứ đồ Đức Chúa Jesus sai đi, và có truyền rằng: Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Samari cả, song thà đi đến những con chiên lạc mất của nhà Ysơraên ” (Mat 10:5, 6).
Phần thưởng của họ là được ngồi trên mười hai ngôi xét xử mười hai chi phái Ysơraên (Lu 22:28-30).
b. Những Sứ Đồ Khác.
Nghiên cứu Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta thấy ngoài mười hai sứ đồ mà Chúa Jesus đã chọn để làm việc với Ngài trong khi Ngài còn ở trên đất thì còn có những sứ đồ khác.
Một trong mười hai sứ đồ đầu tiên là Giuđa, kẻ phản Chúa, đã được thay thế bằng Mathia ngay trước ngày lễ Ngũ tuần (Cong 1:26; 2:14) để cho trọn số mười hai “sứ đồ của Chiên Con ”.
Tuy nhiên, ngoài Mathia, sau ngày lễ Ngũ tuần, còn có nhiều sứ đồ được Chúa chọn và sai đi. Nếu gọi những vị sứ đồ này là “sứ đồ sau sự thăng thiên” thì cũng thích hợp vì họ được ban cho chức vụ sau khi Đấng Christ về trời.
“Các sứ đồ sau sự thăng thiên” có mối quan hệ đặc biệt với Hội Thánh dân ngoại. Những sứ đồ được Kinh Thánh Tân Ước nói đến là Phaolô và Banaba (14:14), Antrônicơ và Giunia (Ro 16:7), Giacơ (Ga 1:19), Sila và Timôthê (ITe 1:1; 2:6), và những người khác (ICo1Cr 9:5; IICo 2Cr 8:23).
Phaolô và Banaba (Cong 14:14) là những gương nổi bật của các sứ đồ được Đấng Christ ban cho Hội Thánh sau lễ Ngũ tuần.
Hơn nữa, việc Hội Thánh đầu tiên thường lặp lại lời khuyên đề phòng “các sứ đồ giả” (IICo 11:13; Kh 2:2), cho thấy rằng còn có những sứ đồ khác.
Câu Kinh Thánh rõ ràng nhất xác định chức vụ sứ đồ còn tiếp tục ở trong câu chúng ta đã trích ở trên. Câu này chép rằng Đấng Christ đã “ban cho một số người làm sứ đồ ” SAU KHI NGÀI THĂNG THIÊN. (Ghi chú: Để rõ hơn về năm chức vụ ân tứ xem phần C5).
c. Chức Vụ Sứ Đồ.
Sứ đồ, là một người được Đấng Christ “sai đi”, là người tiên phong, đặt nền tảng, thành lập các Hội Thánh theo trật tự Kinh Thánh, cai quản và chăm sóc các Hội Thánh đó và làm cho họ vững vàng trong lời Chúa.
Họ chỉ thực hiện một phần nhỏ chức vụ của vị sứ đồ lớn của chúng ta là Đức Chúa Jesus Christ. Người ấy được Đấng Christ kêu gọi và dấy lên, ban cho khải tượng về công việc họ phải làm (Cong 16:15-18).
Bằng chứng của chức vụ này là kết quả của sự lao khổ người ấy, tức là công việc mà người ấy đã làm. Như Phaolô đã viết cho Hội Thánh Côrinhtô “Tôi chẳng phải là sứ đồ sao? … vì anh em là ấn chứng của chức sứ đồ tôi trong Chúa ” (ICo 9:1, 2).
Phaolô ám chỉ rằng việc thiết lập Hội Thánh ở Côrinhtô là bằng chứng về chức vụ sứ đồ của ông. Ông cũng xác nhận rằng chức vụ của ông đến trực tiếp từ Chúa chứ không phải từ con người.
“Phaolô, làm sứ đồ chẳng phải bởi loài người, cũng không nhờ một người nào, bèn là bởi Đức Chúa Jesus Christ và Đức Chúa Trời, tức là Cha, Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại ” (Ga 1:1).
Chức vụ sứ đồ về việc thành lập các Hội Thánh mới được thấy trong những lời của Phaolô viết trong thư Côrinhtô “Theo ơn của Đức Chúa Trời ban cho tôi, tôi đã lập nền như một tay thợ khéo ” (ICo 3:10).
Chức vụ tiên phong này ngày hôm nay vẫn còn đang xảy ra. Hội Thánh là một cơ thể sống chứ không phải là một tổ chức chết. Những Hội Thánh tư gia mới vẫn còn đang được thiết lập, những cánh đồng mới vẫn còn đang được khai phá, vì Hội Thánh vẫn còn đang lớn lên và tiến lên.
Có bằng chứng cho thấy chức vụ ân tứ sứ đồ có thể bao gồm những yếu tố của bốn chức vụ ân tứ còn lại. Ngoài yếu tố tiên phong, lập nền, coi sóc, chức vụ này còn đòi hỏi một số yếu tố về chức vụ tiên tri, giảng tin lành, mục sư và giáo sư. Tuy nhiên chức vụ ân tứ sứ đồ vẫn có những khác biệt so với những ân tứ khác.
2. Tiên Tri
Từ HyLạp là “prophetes”, xuất phát từ hai từ HyLạp “pro” nghĩa là “trước” – đằng trước; và “phemi” nghĩa là “bày tỏ hoặc làm rõ những ý tưởng của một người nào đó ”, tức là nói, xác nhận. Nối hai từ này lại với nhau có nghĩa là người có thể nói (nói trước) ý tưởng của Đức Chúa Trời hoặc có khi là ý tưởng của những người khác.
Chẳng hạn Phierơ đã vận dụng sự xức dầu của ân tứ tiên tri khi ông nói với Anania rằng “… Hỡi Anania, sao quỉ Satan đã đầy dẫy lòng ngươi đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh. ..” (Cong 5:3). Phierơ đã biết ý tưởng của Anania và ông đã nói ra sự lừa dối và đạo đức giả của Anania.
Từ này cũng có nghĩa là “một người phát ngôn được hà hơi”. Nhưng Kinh Thánh Tân Ước cũng cho thấy chức vụ tiên tri còn hơn là rao giảng.
Ân tứ này cũng liên quan đến những ân tứ khác như giảng tin lành, mục sư và giáo sư, tất cả những ân tứ đó đều có liên quan đến lời nói.
Tiên tri là người nói ra những điều dưới sự cảm động của Thánh Linh mà không suy gẫm trước hoặc chuẩn bị trước. Chức vụ của người đó thường quan hệ đến sự vận hành ân tứ tiên tri (ICo 12:10) nhưng chắc chắn cũng bao gồm cả ân tứ về sự mặc khải chẳng hạn như Lời Tri Thức và Lời Khôn Ngoan (12:8).
Ân tứ tiên tri vận hành trong Hội Thánh thành phố hoặc Hội Thánh tư gia (14:1-40) nhưng chức vụ ân tứ tiên tri là sự ích lợi cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ.
Người tiên tri truyền đạt sự mặc khải về những điều thuộc linh và những sự kiện, tình trạng hiện tại và tương lai hay hoàn cảnh mà sự hiểu biết phàm nhân của người ấy không thể nào biết được. Người ấy không kiểm soát (cai trị ) trên những người lãnh đạo, những tín đồ hoặc các Hội Thánh. Người ấy cũng không đưa ra sự hướng dẫn nào. Hơn thế nữa người ấy chỉ xác quyết những gì mà Đức Chúa Trời đã phán với một cá nhân nào đó.
Như chúng ta đã thấy trong bài trước, có một khác biệt căn bản giữa chức vụ tế lễ Cựu Ước và Tân Ước.
Ngày nay, mọi tín đồ đều là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, được trực tiếp vào trong “nơi chí thánh ”.
Mọi tín đồ đều có quyền hiểu biết ý tưởng của Đấng Christ và hiểu biết ý chỉ của Đức Chúa Trời, và không nên phụ thuộc vào sự hướng dẫn của một tiên tri.
Tuy nhiên, tiên tri thời Tân Ước đưa ra sự nổi bật về những sự kiện hiện tại và tương lai và mỗi tín đồ đều được tự do hành động theo sự mặc khải đó. Trong những câu Kinh Thánh sau, chúng ta thấy chức vụ tiên tri vận hành như thế nào.
Cong 11:27-30 Ở đây tiên tri Agabút nói đến sự mặc khải về cơn đói kém sắp đến. Các sứ đồ đã có hành động thực tế theo lời tiên tri này và gửi sự cứu trợ đến cho các anh em ở Giêrusalem.
20:22-24 Trong đoạn này chúng ta thấy Phaolô đã quyết định lên Giêrusalem mặc cho lời cảnh báo của Thánh Linh (có lẽ qua chức vụ tiên tri) rằng dây xích và hoạn nạn đang đợi ông.
21:10-14 Tiên tri Agabút đưa ra lời tiên tri và sự báo trước minh họa cho sự khổ sở đang chờ đợi Phaolô ở Giêrusalem. Tuy nhiên vị sứ đồ này vẫn tiếp tục cuộc hành trình của mình và nói rằng “Nguyện ý Chúa được nên ”.
Những tiên tri khác trong Tân Ước là Giuđa và Sila (15:32).
Do đó chúng ta được ban cho sự hiểu biết kỹ càng về chức năng của ân tứ tiên tri theo khuôn mẫu của Tân Ước. Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên chức vụ như vậy với cách lớn lao hơn trong những ngày đến, và ban cho chúng ta sự khôn ngoan để nhận ra được sự vận hành của ân tứ này.
(GHI CHÚ: Để nắm rõ hơn về chức vụ tiên tri, xin xem phần C5).
3. Người Giảng Tin Lành
Từ này có nghĩa là “người rao giảng tin lành ”. Có lẽ chức vụ ân tứ của người giảng tin lành được hiểu rõ ràng hơn cả. Vị trí và chức năng của chức vụ này ít khi là chủ đề của sự tranh cãi. Người giảng tin lành không làm công việc của một sứ đồ là hình thành và thiết lập Hội Thánh, cũng không phải là công việc của một mục sư.
Chúng ta thấy một gương mẫu nổi bật về chức vụ giảng tin lành của Philíp (8:5-40). Philíp xuống Samari để rao giảng về Đấng Christ. Nhiều người đã tin, những dấu kỳ và phép lạ đã xác minh chức vụ của ông. Philíp đã làm báptêm bằng nước cho họ nhưng sau đó ông đã giao những người mới tin Chúa (kết quả) trong cuộc truyền giáo của ông cho sứ đồ Phierơ và Giăng chăm sóc. Philíp lại đến đồng vắng để rao giảng tin lành cho hoạn quan Êthiôpi.
Thảm họa thường xảy đến trong công tác của một số người giảng tin lành ngày hôm nay, đó là họ không nhận thức được bản chất thật về chức vụ ân tứ này.
Vì Đức Chúa Trời đã chúc phước cho chức vụ truyền giảng nên họ quyết định ở lại một chỗ lâu dài. Điều này làm cho những người chưa được cứu không nhận được ích lợi của chức vụ giảng tin lành của họ và ngăn cản những người mới tin Chúa không nhận được sự phong phú của những ân tứ khác như sứ đồ, mục sư và giáo sư.
Hãy nhớ rằng, Hội Thánh KHÔNG ĐƯỢC xây trên nền của các nhà truyền giáo nhưng “… được xây trên nền của các sứ đồ và tiên tri. ..” (Eph 2:20). Nếu các chức vụ sứ đồ và tiên tri không củng cố và làm vững những người mới tin qua chức vụ giảng tin lành thì Hội Thánh khó mà tồn tại. Nếu có đi chăng nữa, thì chẳng mấy chốc cũng ngã vì thiếu cái nền.
Những người giảng tin lành là “cánh tay” của Đấng Christ vươn ra đến thế gian. Kết quả của chức vụ này sẽ được gom vào trong các Hội Thánh tư gia và được các chức vụ khác mà Chúa đã thiết lập trong Hội Thánh hỗ trợ.
Trong mọi trường hợp trong sách Công-vụ, nếu những người mới tin không phải là kết quả của chức vụ sứ đồ thì chẳng bao lâu các sứ đồ và tiên tri sẽ đến để lập nền. Điều này làm cho những người mới trở thành một Hội Thánh mạnh mẽ.
Bạn hãy đọc 11:19-27. Nhiều người đã tin. Sau đó sứ đồ Banaba đến. Ông rời nơi đó tìm Saulơ (Phaolô) cùng ông đến Antiốt. Chẳng bao lâu sau, các tiên tri đến cộng tác (câu 27). Thật nguy hiểm vì chúng ta đã bỏ lơ khuôn mẫu này.
4. Mục Sư
Từ HyLạp cho từ này là “poimen” nghĩa là “người chăn bầy”. Mục sư là người chăn bầy, chăm sóc và nuôi dưỡng bầy chiên của Đức Chúa Trời. Chức vụ chăn bầy rất giống với chức vụ trưởng lão. Mục sư có một nhân cách và chức vụ yêu thương, chăm sóc và nuôi nấng bầy.
Sự khác nhau căn bản với trưởng lão là các trưởng lão thường là người cao tuổi hơn, được chỉ định bởi những phẩm cách cá nhân nào đó (ITi 3:1-7; Tit Tt 1:5-9 v.v…). Công việc của trưởng lão cũng là “chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời ” (Cong 20:28).
Tuy nhiên chức vụ trưởng lão là chức vụ ở địa phương trong khi chức vụ ân tứ mục sư được ban cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ. Mục sư có thể đi từ Hội Thánh này đến Hội Thánh khác nhưng trưởng lão chỉ gắn liền với một Hội Thánh tại tư gia.
Người ta cho rằng Timôthê và Tít có ân tứ mục sư. Những người trẻ này đã phụng sự dưới sự giám sát chung của Phaolô. Họ cũng được Phaolô sai lập các trưởng lão (Tit 1:5).
Mục sư cũng phải có phẩm chất như trưởng lão, ngay cả sứ đồ Phierơ cũng xác nhận ông là một trưởng lão (IPhi 5:1).
Chức vụ trưởng lão chỉ hạn chế trong Hội Thánh tại tư gia trong khi đó chức vụ ân tứ mục sư hoạt động trong khắp các Hội Thánh tư gia, và là ân tứ được ban cho toàn thể Thân thể của Đấng Christ.
5. Giáo Sư
Từ HyLạp là “didaskalos ” nghĩa là “người dạy dỗ ”, và được dịch theo bản tiếng Anh là tiến sĩ (doctor) và thầy (master). Có mối quan hệ gần gũi giữa chức vụ ân tứ mục sư và giáo sư. Điều này nẩy sinh là do cấu trúc của văn mạch trong Eph 4:11 “Ngài ban cho một số người làm mục sư và giáo sư. ..”. Moffatt đã dịch câu này như sau “Ngài ban cho một số người làm người giảng tin lành, một số người làm người chăn và dạy dỗ ”.
Chúng ta xem từ “mục sư” và “giáo sư” đồng nghĩa nhau là không đúng. Đừng cho rằng những chức vụ này là giống nhau.
Tuy nhiên có một sự liên hệ mật thiết giữa hai chức vụ. Giáo sư làm việc với mục sư và trưởng lão để chăn bầy và dạy dỗ Hội Thánh tư gia, chăm lo cho sự giàu có thuộc linh của họ và hướng dẫn họ bằng Lời của Đức Chúa Trời.
Trong chức vụ dạy dỗ thường có một số điều trùng lặp. Chức vụ dạy dỗ thường là một phần của các chức vụ khác.
Chẳng hạn sứ đồ Banaba (Cong 14:14) cũng được xem là một giáo sư “Trong Hội Thánh tại Antiốt có. .. mấy giáo sư tên là: Banaba. ..” (13:1).
Cũng vậy Phaolô cũng minh họa một người có thể mang lấy nhiều chức vụ ân tứ đa diện. Ông viết “Vì lời chứng ấy, ta được cử làm người rao giảng, làm sứ đồ và giáo sư cho dân ngoại ” (ITi 2:7 và IITi 1:11).
C. MỤC ĐÍCH CỦA CÁC CHỨC VỤ ÂN TỨ
Bây giờ chúng ta đã biết rằng tất cả các chi thể trong Thân hể của Đấng Christ đều có phần trong việc gây dựng Hội Thánh và làm vinh hiển Đấng Christ.
Tuy nhiên Đấng Christ thăng thiên đã ban cho năm chức vụ ân tứ vì một mục đích cụ thể được mô tả trong Eph 4:12 “Để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng Thân Thể Đấng Christ ”.
Từ trọn vẹn trong câu này được dịch từ một tiếng HyLạp là “katartismos”, có nghĩa là “làm cho trọn vẹn”. Từ này có từ gốc là “katartizo ”, nghĩa là “sửa chữa hay điều chỉnh, làm cho hợp, làm cho hoàn hảo, khôi phục”.
Điều này mô tả những gì năm chức vụ này phải làm. Một bản dịch khác dịch câu này rõ hơn “Để chuẩn bị dân của Đức Chúa Trời cho công việc phục vụ, để cho Thân Thể của Đấng Christ được gây dựng ” (4:12 NIV).
Điều này mở ra một ý tưởng thách thức mới về mục đích của những chức vụ ân tứ này trong Hội Thánh. Năm chức vụ ân tứ này KHÔNG làm công việc của chức vụ. Những chức vụ này sẽ chữa lành những cuộc đời tan vỡ và chuẩn bị các tín đồ để những chi thể này sẽ làm công việc của chức vụ.
Điều này được xác nhận trong 4:12 theo bản Diễn Ý như sau:
“Ý định của Ngài là trang bị cho các thánh đồ (dân được chọn của Ngài) một cách trọn vẹn và đầy đủ để họ làm công việc của chức vụ nhằm gây dựng Thân Thể của Đấng Christ (Hội Thánh)”.
Thật là một ánh sáng kỳ diệu về mục đích của các chức vụ trong Thân Thể của Đấng Christ.
Trong sự thành lập quân đội, trước hết các viên chỉ huy phải được huấn luyện sau đó đến lược họ huấn luyện cho quân đội. Cũng vậy, Đấng Christ đã ban ân tứ cho một số người nào đó trong Hội Thánh, để qua chức vụ ân tứ của họ, họ có thể trang bị cho các thánh đồ để phụng sự cho toàn thể Hội Thánh.
Do đó Thân Thể của Đấng Christ và mỗi Hội Thánh tư gia sẽ tự phục vụ và tự gây dựng.
Mặc dù không phải tất cả các tín đồ đều có chức vụ ân tứ, nhưng tất cả đều có nhiệm vụ gây dựng Hội Thánh và dân sự của Đức Chúa Trời. Nguyện mỗi người trong chúng ta, là những chi thể trong Thân Thể của Đấng Christ, đều khám phá được chức vụ của mình và làm trọn chức vụ đó.
“Vì chúng ta có các sự ban cho khác nhau, tùy theo ơn đã ban cho chúng ta, ai được ban cho nói tiên tri, hãy tập nói theo lượng đức tin; ai được gọi đến làm chức vụ, hãy buộc mình vào chức vụ; ai dạy dỗ hãy chăm mà dạy dỗ; ai gánh việc khuyên bảo hãy khuyên bảo; ai bố thí, hãy lấy lòng rộng rãi mà bố thí; ai cai trị hãy siêng năng mà cai trị; ai làm sự thương xót hãy lấy lòng vui mà làm ” (Ro 12:6-8).